Quang cao giua trang

Huyền thoại miếu Bà Phước Long

Chủ nhật - 15/08/2021 10:36 283 0
Huyền thoại miếu Bà Phước Long

MIẾU BÀ - GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, VĂN HÓA VÀ TÂM LINH

Không ai xa lạ gì miếu Bà (Bà Rá) tại thị xã Phước Long. Miếu Bà đối diện Nghĩa trang liệt sĩ Phước Long, gần chùa Long Sơn, sát ĐT.741, với không gian rộng lớn, vị trí dễ nhìn. Nhưng có thể không ít người đến nay vẫn chưa hiểu hết giá trị lịch sử, văn hóa và tâm linh của miếu Bà.

Trong quá trình nghiên cứu về văn hóa của người S’tiêng, nghiên cứu truyền thuyết của người S’tiêng liên quan đến núi Bà Rá và khi đọc tác phẩm "Non nước Phước Long" của tác giả Lưu Ty (năm 1972), tôi rất ngạc nhiên khi thấy tác giả viết về miếu Bà có liên quan đến lịch sử, văn hóa tâm linh của người S’tiêng, trong đó có 2 nữ thần (theo truyền thuyết). Lần theo bài viết, ngày 27-12-2020, tôi đến miếu Bà để xem những gì mà tác giả Lưu Ty đã viết liên quan đến lịch sử xây dựng, nhân vật tâm linh và những ứng xử của người Pháp lúc bấy giờ đối với miếu Bà.

Theo tác giả Lưu Ty, miếu Bà xây cất vào năm 1927, sau 3 năm thành lập quận Sông Bé (1924) và có thể nói là công trình xuất hiện trước nhất so với các cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng khác trên mảnh đất Phước Long lúc bấy giờ (Lưu Ty, 1972, tr.115). Năm 1943, miếu Bà được sửa sang lại nhưng chưa được khang trang. Sự linh ứng của "Bà - nữ thần" đã làm cho những người đương quyền cai trị tại đây chú ý và kính nể nên khi sửa sang lại vào năm 1943, các viên chức người Pháp đã viếng miếu Bà, khắc tên vào bản gỗ, mang dòng chữ: "Administrateur des Services Civils larivire. Délégué Actif de Nui Bara Barrière Inspecteurs de la Police de Sureté. J.Piquad J.Henr. Nui Bara, le Janvier 1943".

Núi Bà Rá nhìn từ hướng thị xã Phước Long - Ảnh tư liệu

Đến năm 1957, khi tỉnh Phước Long thành lập, được chính quyền quận tạo điều kiện, cùng sự quan tâm của các ông Kiến Phúc, Phạm Bao (những người ở đây từ lâu) và một số đồng bào tin tưởng ở sự linh thiêng của Bà đã cùng nhau đóng góp xây cất lại miếu (Lưu Ty, 1972. tr.117).

Vào trong miếu Bà, tôi thấy ngay bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh do Phó chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Huy Phong ký tại Quyết định số 41, ngày 8-1-2015 (sau khi được trùng tu, nâng cấp từ tháng 6-2013 đến tháng 4-2015). Tiếp đến, trong phần lưu niệm ghi rõ: "Miếu Bà được thành lập tháng 1 năm 1943".

Tôi gặp người quản lý và hỏi trong miếu Bà có chỗ nào treo bản gỗ khắc tên những người Pháp là: J.Piquad và J.Henry không? (như sự mô tả của tác giả Lưu Ty). Những người quản lý trả lời ngay là: "Có chứ, nếu không có cái đó sao được công nhận là di tích". Tôi rất mừng vì tư liệu lịch sử vẫn còn đó, nhưng hơi buồn vì hôm đó bị mất điện. Phía trong tối om, tôi nhờ một người soi đèn pin thì trên bản gỗ thấy rõ những dòng chữ có tên của J.Piquad và J.Henry như tác giả Lưu Ty đã mô tả. Trong phần dịch sang tiếng Việt còn ghi (bản gốc không có tiếng Việt): "Giám đốc Sở nội vụ: LARIVIERC, Trưởng ban điều hành hoạt động núi Bà Rá BARÈRE, Thanh tra cảnh sát và bảo an J-RIQUAUD và J-HERRY Núi Bà Rá, 01-01-1943".

Trở lại quá khứ, Bà Rá xưa kia là vùng đất rừng thiêng, nước độc, sương lam chướng khí, luôn đe dọa đến đời sống của người S’tiêng, những người đến vùng đất Phước Long lập nghiệp (kể cả các tù nhân chính trị bị thực dân Pháp đày ải). Sự ảnh hưởng của núi rừng, khí hậu thường xuyên thay đổi dẫn đến thường xảy ra bệnh tật, thuốc men lại thiếu thốn, những người sống ở đây đã tin tưởng vào sự che chở và bảo vệ của thần linh núi Bà Rá nên một số người (trong đó có tù nhân bị đày) đã lập ra miếu Bà để thờ thần núi Bà Rá. Trong số những người bị đày ải có cả những người con của người S’tiêng như Điểu Mốt, Điểu Son cùng một số người (Điểu Môn trốn thoát) bị bắt và giam tại nhà tù Bà Rá, sau khi giết chết Quận trưởng Morère vào sáng 13-3-1933. Về sau, Điểu Mốt (Điểu Mốt và Điểu Môn là người trực tiếp chém Quận trưởng Morère) bị đày ra Côn Đảo rồi bệnh chết. Đến năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, người Nhật mở các nhà giam ra, Điểu Son được trở về sóc Bu Bin (nay thuộc thôn 4, xã Phước Sơn, huyện Bù Đăng). Nhưng đến năm 1947, khi Quận trưởng Sông Bé là Voisine đến làng Điểu Son. Bực tức vì làng Điểu Son không ai ra tiếp đón, Voisine đã ra lệnh vây bắt Điểu Son, vì cho rằng do Điểu Son chống đối. Lần nữa, Điểu Son lấy chà gạc bổ ngay vào Voisine khi ông ta vừa tiến vào nhà Điểu Son (Voisine tránh được chỉ trúng cánh tay). Lần này Điểu Son bị bắt, xiềng xích và nhốt kỹ. Năm 1952, nhân sự lơ là của lính gác, Điểu Son phá xiềng và thoát ngục, nhưng bị lính canh gác gần đó bắn chết, cách Sơn Giang khoảng 200m (Lưu Ty, 1972, tr.139-140).

Tên gọi Bà Rá có từ khi nào?

Theo ngôn ngữ của người S’tiêng thì Bnâm Brăh (Bơnâm Bră) tức núi Bà Rá có nghĩa là núi Thần. Trong từ điển S’tiêng - Pháp (Dictionnaire Stieng) của ông R.PH. Azémar xuất bản năm 1887 gồm 2.500 mục từ, ông Azémar cũng viết rõ từ BơNâm (núi) và từ Brăh (thần).

Những năm đầu thế kỷ XX, nhiều nhà nghiên cứu người Pháp như: P.De Barthélémy, P.Raulin, J.Dournes, Bernard Bourotte... đã có những bài viết về người S’tiêng và vùng đất Phước Long. Năm 1900, ông P.De Barthélémy khi đi khảo sát vùng núi Bà Rá đã mô tả các làng S’tiêng ở vùng Bà Rá (ông P.De Barthélémy viết tên núi Bà Rá là Djambra). Ông P.De Barthélémy còn mô tả chi tiết: "người S’tiêng cư trú dọc Sông Bé, săn bắn và bắt cá là hai nguồn sống quan trọng đối với họ. Ở một số làng người S’tiêng lúc đó đã biết làm ruộng" (Mạc Đường, 1985, Vấn đề dân tộc ở Sông Bé, tr.17-18). Những năm 1926, người Pháp đã chụp hình khá nhiều về cảnh sinh hoạt của người S’tiêng khu vực núi Bà Rá viết "LA NUI BA RA".

Hình chụp bản gỗ có dòng chữ “Administrateur des Services Civils larivire. Délégué Actif de Nui Bara Barrière  Inspecteurs de la Police de Sureté. J.Piquad J.Henry, Nui Bara, le Janvier 1943”, trong miếu Bà, theo sự mô tả của tác giả Lưu Ty

Theo các tác giả Lưu Ty (Non nước Phước Long, 1972, tr.42), Cửu Long Giang và Toan Ánh (Cao Nguyên Miền Thượng, 1974, tr.552) thì tiếng Bà Rá là do tiếng B'Ra của người S’tiêng, người Kinh phiên âm ra thành Bà Rá. Ngôn ngữ của người S’tiêng thuộc ngôn ngữ đa âm, phụ âm "Br" phải đọc liền, khi ghép với nguyên âm "ă" tạo thành Bra, Brah, Bră hay Brăh với ý nghĩa là thần (chữ S’tiêng trước đây chữ a dùng chung cho cả a và ă). Chữ B trong từ "Bra" không đọc như chữ "bờ", mà hơi giống "vờ", càng không đọc là "Bà". Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm nên người Kinh khi phát âm đã tách phụ âm "b và r" trong từ "Bra" ra thành Bà Rá, đọc chữ b (bờ) thành "Bà" trong từ "Bra" cho nên mới có từ Bà Rá. Điều này cũng đã xảy ra ở một số địa danh như Bà Lợi (Bà Rịa), trong đó chữ "Lợi" đã bị biến âm thành chữ "Lịa" rồi sang chữ "Rịa" (Nguyễn Đình Đầu, 1991, Địa chí tỉnh Sông Bé, tr.146). Tương tự như địa danh con suối Dak Kir nằm trên đường ĐT.759 (ranh giới giữa xã Đa Kia và xã Phước Minh, thuộc huyện Bù Gia Mập) cũng bị biến âm thành "Đa Kia".     

Không chắc chắn để khẳng định, tuy nhiên có thể nói tên Bà Rá xuất hiện khá sớm đối với người Kinh ở Phước Long, nhưng có lẽ phổ biến từ năm 1924 khi quận Bà Rá được thành lập (địa bàn Phước Long ngày nay thuộc tỉnh Biên Hòa). Từ 1924 đến năm 1933, quận Bà Rá được thay đổi tên liên tục, năm 1925 đổi tên thành quận Phú Riềng, năm 1927 đổi thành quận Sông Bé, năm 1933 đổi thành quận Núi Bà Rá (Lịch sử Đảng bộ, quân và dân Phước Long 1975-2014, tr.11). Đến năm 1963, núi Bà Rá đã đổi lại là núi Phước Sơn (Lưu Ty, 1972, tr.44; Cửu Long Giang và Toan Ánh, 1974, tr.552).

Như vậy, tên gọi Bà Rá là do người Kinh phiên âm "Brăh hay Bră, Bra" từ ngôn ngữ của người S’tiêng. Dù tên đã bị phiên âm nhưng giá trị lịch sử, văn hóa và tâm linh của núi Bà Rá không mất đi. Ý nghĩa này mãi mãi được gìn giữ, tôn trọng, bởi sự linh thiêng không chỉ trong tâm thức của người S’tiêng mà cả cộng đồng khách thập phương trong và ngoài tỉnh.
 

NGƯỜI ĐƯỢC THỜ TRONG MIẾU BÀ LÀ AI?

 

BPO - Từ lâu đời, núi Bà Rá nằm trên địa bàn thị xã Phước Long không chỉ là danh lam thắng cảnh nổi tiếng mà còn là một ngọn núi linh thiêng, liên quan đến tâm linh, cội nguồn lịch sử, văn hóa của người S’tiêng. Yếu tố văn hóa, tâm linh, huyền thoại được gắn liền với các sự kiện đã hình thành nên quần thể văn hóa - tâm linh liên quan đến ngọn núi nổi tiếng này trong dân gian. Vì vậy, núi Bà Rá đã gắn liền với đời sống văn hóa tinh thần, trung tâm câu chuyện huyền thoại về vị thần đã có công trong việc hình thành và bảo vệ núi Bà Rá.

Từ năm 1998 đến nay, tôi đã viết khá nhiều bài về truyền thuyết núi Bà Rá. Gần đây nhất vào năm 2018, tôi có bài viết "Ai là nhân vật liên quan đến quần thể văn hóa - tâm linh núi Bà Rá?", đăng trên Tạp chí Khoa học thời đại tỉnh Bình Phước, ISSN 1859-3747, số 41, ngày 6-2-2018, tr.70-71. Trong bài viết đã nhắc đến vị thần khổng lồ (Yau Nhưt) và hai người em gái của vị thần (Mi Jiêng và Mi Lơm) sinh hoạt trên núi Bà Rá. Vấn đề cần trao đổi, ai là (nữ thần) nhân vật đang được thờ trong miếu Bà hiện nay.

Theo tác giả Lưu Ty, ngày xưa có một ông tiên tên là Giang (viết theo chữ S’tiêng là Yang đúng hơn) trấn thủ vùng này từ vùng rừng núi Tây Ninh đến Phước Long, chạy sát biên giới Miên. Vị tiên này có hai người em gái, người chị tên là Lơm và người em là Giêng (viết Jiêng đúng hơn). Mỗi người có một sở thích và cá tính khác nhau. Bà Lơm thích tu hành, thích lập chùa để cúng bái. Bà Giêng thích ở một mình nơi thanh vắng. Trước hai sở thích ấy, người anh đã chiều và đắp cho mỗi người một quả núi để ở. Bà Lơm là chị thích tu hành và nơi đông người nên ở tại núi Bà Đen (Tây Ninh). Còn Bà Giêng thì ở núi Bà Rá, Phước Long (Lưu Ty, 1972, tr. 42-43).

Địa bàn cư trú của người S’tiêng theo truyền thuyết vào đầu thế kỷ XX (theo tác giả Barthélémy M.D trong "Au pay Mois" Paris Plon-Noutit 1904) - nguồn: Mạc Đường, 1985, Vấn đề dân tộc ở Sông Bé, tr.15

Tác giả Cửu Long và Toan Ánh (Cao Nguyên Miền Thượng, 1974, tr.553) cũng cho rằng ông Giang có hai người em gái tên là Lơm và Giêng. Hai chị em có nếp sống khác nhau. Bà Lơm mê tu hành, lập chùa chiền cúng vái, bà Giêng thích một mình ở nơi thanh tịnh vắng vẻ. Trước hai sở thích đó, ông tiên mới đắp cho mỗi người một trái núi ở hai nơi cách xa. Bà Lơm là chị ở núi Bà Đen (Tây Ninh), con bà Giêng là em ở núi Bà Rá (Phước Long).

Mạc Đường (Vấn đề dân tộc ở Sông Bé, 1985, tr.15) cho rằng: "Vị tổ người S’tiêng có hai người em gái, ông ta đắp núi Bà Đen và Bà Rá cho hai em ở. Cô gái đầu làm chủ vùng núi Bà Đen, cô em gái thứ hai làm chủ núi Bà Rá". Như vậy, theo các tác giả này thì cô em (Giêng) là nữ thần ngự trị trên núi Bà Rá và đang được thờ trong miếu Bà.

Có người cho rằng, Bà Đen, Bà Rá và Bà Chúa Xứ (ở An Giang) là ba chị em. Theo kết quả nghiên cứu giả thiết này không có cơ sở. Về mặt không gian văn hóa và tâm linh không có liên quan. Ngọn núi ở An Giang không có mối quan hệ với ngọn núi Bà Đen và Bà Rá (các núi ở An Giang nằm trong dãy núi “Đậu Khấu” bắt nguồn từ biên giới Thái Lan).

Xuôi theo dòng truyền thuyết của người S’tiêng, địa bàn cư trú của người S’tiêng trải dài từ núi vùng Bà Rá, tỉnh Bình Phước đến núi Bà Đen thuộc tỉnh Tây Ninh. S’tiêng (Sơdiêng hay Sdiêng) Yau Nhưt (một vị thần khổng lồ) đã xây dựng nên núi Bà Rá và Bà Đen. Yau Nhưt có hai người em gái rất xinh đẹp tên là Mi Jiêng và Mi Lơm (Mi tức là cô, nàng) rất giỏi dệt thổ cẩm (tảng đá lớn giữa chân núi Bà Rá nơi có đường cáp treo đi qua chính là nơi hai em gái vị thần ngồi dệt thổ cẩm). Yau Nhưt đã đổ 7 gùi đất (gùi cũ) để đắp nên núi Bà Rá (poh Săh Tu). Trước khi đắp núi Bà Rá, Yau Nhưt đã đổ một gùi đất tại khu vực ở cuối thôn 7, xã Long Giang, thị xã Phước Long ngày nay, người S’tiêng gọi núi đó là Bơnâm con Brăh, nghĩa là “núi con thần” hay còn gọi là Bơnâm Săh Tu (núi gùi cũ: đất đựng trong gùi cũ; núi mọc bên suối Săh Tu).

Lý do vị thần Yau Nhưt thay đổi địa điểm (không chọn suối Săh Tu) là khi vị thần đo khoảng cách từ núi Bà Đen đến núi Bà Rá không đủ 7 cây gậy (poh toong bơr nos - cây gậy của vị thần dùng để thụt canh). Trong đời sống tín ngưỡng dân gian của người S’tiêng, 7 là con số may mắn, con số tâm linh. Phải chăng, vì lý do đó mà vị thần khi xây dựng núi Bà Rá đã đổ hết 7 gùi đất, chọn kích thước “7 cây gậy” để làm khoảng cách từ núi Bà Đen đến núi Bà Rá.

Người S’tiêng Bu Dêh (vùng Bình Long, Hớn Quản) thì cho rằng: Ngày xưa vốn chỉ có một núi Bà Rá, nhưng do hai chị em tranh nhau lấy chồng. Người em gái xinh đẹp hơn nên được người đời quý mến hơn, người chị ghen tức và đuổi người em đi. Người em ra đi chỉ mang theo một gùi đất, dọc đường người em dừng chân tại xã Phước An, huyện Hớn Quản, đất bị rơi rớt tạo thành Bnâm Roh (Núi Gió ngày nay). Người chị lấy cây gậy đo khoảng cách từ núi Bà Rá đến nơi ấy thấy vẫn gần, người chị lại tiếp tục đuổi em đi. Người em đi mãi đến tận Tây Ninh và dựng núi Bà Đen.

Theo câu chuyện này (tác giả đi khảo sát tại xã An Khương năm 1999) thì cô Lơm là chị ở núi Bà Rá, cô em là Jiêng ở núi Bà Đen. Dù là truyền thuyết nửa người nửa thần, dù là chị hay em đang ngự trị trên núi Bà Rá, việc xây dựng công trình miếu Bà có ý nghĩa, giá trị quan trọng về mặt lịch sử, văn hóa và tâm linh (trong đó có công của những người bị tù đày tại Bà Rá trong thời kỳ chống thực dân Pháp). Trước khi người S’tiêng theo đạo, trong các sự kiện nghi lễ tín ngưỡng truyền thống, người S’tiêng luôn khấn mời các vị thần trong vùng như: thần Sông Bé, Thác Mơ, Thác Mẹ và không thể quên thần núi Bà Rá. Trong cuộc sống, người S’tiêng thường kể về sự giỏi giang của hai nữ thần để giáo dục con cái (hai nữ thần rất giỏi dệt vải). Trong hôn nhân, những cô gái chảnh chọe thường bị cha mẹ mắng bằng câu "ay klanh y bêi Mi Jiêng, Mi Lơm” (con nghĩ mình đẹp như cô Jiêng, cô Lơm chắc). Hoặc những người con trai kén vợ cũng bị cha mẹ mắng bằng câu "nar kơi may pơs sai klanh ur y bêi Mi Jiêng, Mi Lơm" (mai mốt xem con cưới vợ có đẹp như cô Jiêng, cô Lơm không?). Có thể thấy, ngoài yếu tố tâm linh, hình ảnh hai nữ thần đã in sâu vào tiềm thức của cộng đồng người S’tiêng.

Để phát huy tốt giá trị lịch sử, văn hóa và tâm linh của núi Bà Rá nói chung và miếu Bà nói riêng, chính quyền địa phương, ngành chức năng, những người quản lý miếu Bà nên phối hợp với các nhà khoa học, trí thức, già làng người S’tiêng, sở, ngành liên quan của tỉnh Tây Ninh tổ chức hội thảo khoa học. Qua đó trao đổi, giới thiệu đầy đủ hơn về ý nghĩa lịch sử, văn hóa và tâm linh của miếu Bà (Bà Rá), mối liên hệ giữa hai nữ thần (núi Bà Đen và núi Bà Rá) để tránh những cách hiểu không thống nhất, thúc đẩy phát triển du lịch văn hóa tâm linh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của Bình Phước nói chung và Phước Long nói riêng.

Tác giả bài viết: BBP

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

15/2020/NĐ-CP

Nghị định 15/2020/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bƣu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử

Thời gian đăng: 26/08/2021

lượt xem: 235 | lượt tải:74

80/2014/QĐ-TTg

Quyết định số 80/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Quy định thí điểm về thuê dịch vụ công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước

Thời gian đăng: 10/08/2017

lượt xem: 195 | lượt tải:2

20/2014/TT-BTTTT

Thông tư 20/2014/TT-BTTTT của Bộ TT&TT ban hành ngày 05/12/2014 quy định về các sản phẩm phần mềm nguồn mở (PMNM) được ưu tiên mua sắm, sử dụng trong cơ quan, tổ chức nhà nước.

Thời gian đăng: 10/08/2017

lượt xem: 1880 | lượt tải:2

72/2013/NĐ-CP

Nghị định số 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ : Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng

Thời gian đăng: 10/08/2017

lượt xem: 196 | lượt tải:80

310/BTTTT-ƯDCNTT

Công văn số 310/BTTTT-ƯDCNTT ngày 10/02/2012 của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc hướng dẫn áp dụng bộ tiêu chí đánh giá cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước

Thời gian đăng: 10/08/2017

lượt xem: 250 | lượt tải:3
Công báo
Tra cứu thuế
csdl vbpl
csdl tthc
Bluezone
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây